Hiển thị các bài đăng có nhãn di động. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn di động. Hiển thị tất cả bài đăng

Sự chuyển dịch vô tuyến theo nhận thức của cộng đồng

 Mạng di động ngày nay thường được hiểu là các công nghệ mạng di động 2G, 3G, 4G, hay 5G… Với thiếu bị người sử dụng là một chiếc điện thoại kèm với SIM.

Mang di động được thiết kế đang mang thông tin, với khái niệm truyền thống là Tín nhắn SMS, Thoại Voice và dữ liệu Data.

Việc phân chia 3 kiểu dịch vụ mang là SMS, VOICE, DATA được khỏi phát từ khi thiết kế mạng di động, Ngày nay với các ứng dụng OTT và Internet tốc độ cao, việc phân chia thành 3 dịch vụ mang như trên, thì nhiều người thấy rất khó hiểu, và thấy rằng thật lỗi thời. Ngày nay tôi còn thấy nhiều người trao đổi với nhau bằng đoạn ghi âm( recorder), thấy rất thú vị, và thời đại.

          Năng lực tính toán của chip tăng gấp đôi trong 3 năm, hiện nay năng lực tính toán của chip tương đương với các siêu máy tính cách đây chục năm, Chính vì năng lực này và khả năng sản xuất, giá thành rẻ đi. Theo đó những thuật toán phức tạp như biến đổi Fourier, MIMO, Beamforming… được xử lý trong những thiết bị rẻ tiền. Điều này giúp gia tăng hiệu suất, hiệu quả sử dụng phổ tần số lên nhiều lần, Vì vậy, với cùng một kênh tần số hữu hạn, tốc độ dữ liệu có thể tăng thêm nhiều lần giúp tăng chất lượng dịch vụ, cũng như nhiều ứng dụng được sử dụng. Hãy để ý tới ngay những thiết bị các bạn sử dụng là máy di động, là các thiết bị Router, AP trong gia đình các bạn sẽ thấy rất rõ sự thay đổi này. Tôi cũng khuyên nghị các bạn hãy thay thế thiết bị này cứ sau 3 năm sử dụng để nhận được những dòng thiết bị chất lượng hơn.

Ví dụ về một thiết bị AP, mà bất kỳ người dân nào cũng có thể mua, nhưng sở hữu những tính năng thời đại.

          Công nghệ mạng di động ở những giai đoạn đầu có mưc độ tập trung cao. Việc sử lý thông tin ở những lớp cao hơn trong mô hình OSI phải được xử lý ở những mạng core trung tâm, đặt tại những tổng đài quan trọng thuộc Node mạng quan trọng, thuộc về sử hữu của nhà mạng. Với các node mạng quyên thuộc như sMSC, MMSC, hay như node truyền dẫn DWDM.

          Ngày nay, công nghệ mạng di động chuyển hẳn sang phân tán, từ phân tán về phần cứng, cấu trúc, tới phân tán về mặt chức năng. Với đặc điểm thiểt bị như RRU, miniDWDM, Công nghệ vô tuyến SRD…, do yêu cầu độ trễ thấp và khả năng đáp ứng, xử lý phần cứng tốt hơn, rẻ hơn lên những lớp cao hơn trong mô hình OSI được đẩy hẳn xuống cho lớp truy cập xử lý. Công nghệ Cache cũng dần được phân tán hóa, với dung lượng bộ nhớ lớn hơn, và rẻ hơn làm cho việc Cach ngay tai lớp truy cập cũng ngày càng đơn giản hơn.

          Chúng ta hãy để ý rằng, bản chất của con người là trao đổi thông tin thường xuyên hơn ở cùng một nhóm người có cùng mối quan hệ, ví dụ người cùng một gia đình trao đổi thường xuyên hơn với người hàng xóm, các nhân viên trong cùng một công ty trao đỏi thường xuyên hơn với các nhân viên khác công ty. Các thành viên trong một làng/ xã hay trao đổi với nhau hơn giữa các thành viên khác làng/xa nhau. Hãy nói rộng ra là trao đổi thông tin của những người trong cùng một quốc gia là lớn hơn rất nhiều giữa hai thành viên của hai quốc gia. Chính vì thế các thủ tục truyền thông, cũng như nội dung được khép kín tại ngay lớp truy cập sẽ tích kiệm và nhanh hơn rất nhiều so với kiểu thiết kế tập trung trước đây. Về bản chất nội dung cũng cho ta kết quả tương tự, khoảng 20% số lượng nội dung được sử dụng trong không gian mạng là chiếm tới 80% băng thông. Các bạn có thể kiểm chứng ngay trên youtube thì sẽ rõ. Với cùng một bài hát, có bài hát xem tới 10 triệu lượt view, nhưng có bài hát chỉ vài trăm lượt view. Nội dung của bài hát này được lưu tại một server đâu đó trong không gian mạng, trước kia để nghe bài hát đó, thì ta đều cần truy cập và cần đường truyền từ serve tới tận khách hàng cần nghe. Vậy điều gì sẽ xẩy ra nếu ta lưu ngay nội dung bài hát đó tại Cache của khách hàng, như vậy băng thông đường truyền là không cần thiết nữa, Vậy với việc chỉ lưu trữ bài hát theo trend, với 20% tổng số nội dung có người dung hay sử dụng ta đã làm giảm tới 80% băng thông đường truyền.

          Về nhận thực, hay xác thực tài khoản. Trước kia, việc xác thực đều phải thông qua một số định dạng bằng SIM. Số điện thoại di động, Cái việc này như luật bất thành văn vậy, làm cho quyền lực thuộc về nhà mạng và thuộc sự quản lý của nhà nước. Nhưng hiện nay các bạn thấy rằng dần xuất hiện những kiểu nhận thực mới, là thông qua mã QA code, thông qua xác thực bởi Email, nhận thực thực qua thiết bị phần cứng OTP, hay cả eSIM.  Điều này sẽ giúp phân tán quyền lực tốt hơn, nhiều ứng dụng sẽ được tham gia phục vụ khách hàng. Ngay nay, ngay cả những giao dịch quan trọng như ngân hàng, thì việc đổi hỏi xác thực qua tín nhắn, số điện thoại đã không còn nữa.

          Lượng thông tin được truyền trên không gian mạng tăng gấp đôi sau mỗi 2.5 năm. Sự bùng nổ này đến từ số hóa và đưa lên không gian mạng mọi khía cạnh của đời sống, chất lượng nội dung tăng lên, nhu cầu tăng lên và ngày càng nhiều người tiếp cận được với dịch vụ mạng hơn nhờ giá thành dẻ hơn của dịch vụ, cũng như thiết bị đầu cuối. Hiện nay không chỉ con người mới sử dụng mạng viễn thông, mà sự tăng lên nhanh chóng của các thiết bị IOT cũng tham gia vào quá trình này, đơn cử các bạn có thể quan sát Camera an ninh được lắp đặt ngày một dầy đặc là một ví dụ, làm cho tốc độ gia tăng nhu cầu sử dụng dịch vụ viễn thông cao hơn nữa.

          Vậy nhà mạng làm gì để đáp ứng với nhu cầu đó, việc triển khai 3G, 4G và 5G,… cùng với việc sử dụng các công nghệ anten giúp tăng hiệu quả phổ tần số lên, giúp cho số lượng bít dữ liệu được truyền trên 1 HZ băng thông tần số cao hơn. Không những cải thiện mạnh về công nghệ, số lượng vị trí trạm thu phát song cũng tăng mạnh, trước kia khoảng cách trạm – trạm thu phát song trong thành phố là 500m, thì nay đã giảm xuống còn nhỏ hơn 200m. Theo dự đoán của chuyên gia và công nghệ tần số cao được đưa vào sử dụng, thì khoảng cách giữa 2 trạm thu phát sóng phải giảm hơn nữa. Số lượng trạm thu phát vô tuyến tăng lên, sẽ kéo thêm gạnh nặng khủng khiếp cho nhà mạng. Cho chi phí thuê vị trí đắt trạm khi mặt bằng thuê đắt đỏ, chi phí điện, cũng như các chi phí vận hành và bảo trì….

          Vì vậy việc đẩy trách nhiệm cho phát triển phổ cập công nghệ, thúc đẩy công nghệ truyền tải cho một vài nhà mạng sẽ đẩy gánh nặng khủng khiếp cho họ. Hoặc nếu nhà mạng thiếu năng lực, sẽ làm chậm sự phát triển của công nghệ, cái mà người tiêu dùng có thể được hưởng. Với những phân tích ở trên, thì người đọc có thể đoán được tương lai rồi, phải chăng việc lựa chọn công nghệ, sử dụng công nghệ sẽ tiến tới phụ thuộc vào từng cá nhân, doanh nghiệp hoặc cộng đồng.

          Hãy cùng nhớ lại về công nghệ 2G truyền thống, đường truyền dẫn TDM. Ta chỉ cần một đường truyền 2Mbps là đủ để mang thông tin một trạm thu phát vơi cấu hình max thời điểm ban đầu là 12 TRX. Với đường truyền 2Mbps này có thể đảm bảo cho 48 cuộc gọi đồng thời với tốc độ thoại là HR. Thời điểm đó, tôi sử dụng dịch vụ này thật là hạnh phúc, chất lượng thoại MOD cũng khá tốt( khoảng 3.2/ Max là 4.5). Hãy nhớ là 2Mbps là 48 người có thể sử dụng đồng thời.

          Tiếp theo ta hãy nói về Video. Ta cần tối thiểu khoảng 120kbps đường truyền cho dịch vụ video thời gian thực, kiểu như các bạn gọi Zalo cho người thân, với dịch vụ Video HD thì tốc độ cần cao hơn, có thể là tới 4Mbps, hoặc hơn nữa. NHƯNG ngày nay với cùng đường truyền 120kbps sẽ cho ta được chất lượng Video tuyện vời hơn nhiều. Với công nghệ, thuật toán hoặc AI xử lý dữ liệu nguồn video sẽ đảm bảo chất lượng tuyệt hảo, bằng việc hạn chế hoặc KHÔNG truyền dữ liệu dư thừa, mà thuật toán chỉ cho phép truyền những thông tin hữu ích trên đường truyền 120kbps này, đầu cuối sử dụng những thuật toán tiên tiến, với những bộ nhớ và bộ xử lý tốt làm việc còn lại để khôi phục hình ảnh sắc nết. Nhiều bạn đọc đến đây thấy khó hiểu phải không? Hãy đứng trước gương và quan sát. Nếu ta liên tục mã hóa các điểm ảnh Pixel và truyền đi toàn bộ khung hình trong gương với tốc độ là 24 khung hình/s. Để video được sắc nét thì điểm ảnh Pixel cần min và nhiều bit/pixel hơn. Dẫn tới tốc độ đường truyền cần thiết là cao hơn. Nhưng các bạn thấy gì khi soi gương? Bàn ghế trong phòng không thay đổi theo thời gian, các vật dụng cũng vậy, phải chăng là thi thoảng các bạn nháy mặt hoặc đung đưa tay? Phải chăng nếu ta chỉ truyền ban đầu là một bức ảnh thật sắc nét, các lần sau ta chỉ truyền những cái thay đổi thì đường truyền không cần phải lớn mà chất lượng video cũng thật là sắc nét. Như vậy việc sử lý dữ liệu nguồn đã giải quyết được chất lượng video với băng thông hạn chế. Phương pháp này gọi là nén dữ liệu tại nguồn, đây là phương pháp cực kỳ hữu hiệu trong truyền thông tin liên hành tinh, nơi mà khoảng cách truyền thông tin tới hàng trăm triệu km. Theo tính toán, với cùng một chất lượng, thì việc xử lý dữ liệu nguồn đã tích kiệm băng thông truyền dẫn tới 5 lần. Hay ngược lại, ta có thể tích kiệm băng thông 5 lần, khi nhận cùng một chất lượng dịch vụ.

          Ngay nay với một gói cước GPON chỉ 10USD/ tháng, bạn có thể sử dụng băng thông đường truyền tới 100Mbps, các thiết bị, phụ kiện cáp, đầu chuyển đổi quang điện cũng vô cùng rẻ tiền và chất lượng cao. Đã giúp phổ cập Internet băng thông rộng tới các hộ gia đình. Có bao giờ chúng ta tự hỏi liệu 100Mbps sử dụng cho 1 gia đình có quá dư thừa? và với sự phát triển công nghệ tôi nêu ở trên, thì sự dư thừa sẽ càng tăng lên? Và cộng đồng dân cư, có thể sử dụng sự thừa này với thiết bị sẵn có để cùng nhau làm thành khu dân cư thông minh, và chia sẻ intenet? Tôi nghĩ rằng đó sẽ là một cuộc cách mạng lớn. Việc xây dựng mạng lưới sẽ không chỉ dành cho những nhà mạng lớn, mà sẽ thuộc về cả hộ gia đình và cụm dân cư. Kỹ sư vô tuyến sẽ thực hiện sứ mệnh mới, là thiết kế, xây dựng, vận hành cho từng mạng vô tuyến đó.

TRÌNH ĐỘ khai thác mạng lưới viễn thông- TRÌNH ĐỘ KHAI THÁC ẢNH

Trình độ khai thác mạng lưới ngày nay chính là trình độ khai thác ảnh. Trình độ khai thác ảnh càng cao thể hiện trình độ khai thác mang lưới càng tốt.

Một mạng lưới viễn thông với những đặc tính.

1. Rộng lớn. Nói tới mạng lưới viễn thông thì phải nghĩ ngay nó là rộng lớn, một công việc đại sự tầm quốc gia. Mạng lưới viễn thông phải bao phủ toàn bộ lãnh thổ của quốc gia để mang dịch vụ viễn thông tới từng người trong quốc gia đó, vì thế mạng lưới viễn thông rất rộng lớn.

2. Mạng lưới này vận hành 24/24 nó chịu tác động của thiên nhiên, nắng, mưa, gió, báo vì thế nó có xu hướng xuống cấp theo thời gian xử dụng

3. Tài sản mạng lưới rất lớn và có giá trị cao. Các quyết định đầu tư đòi hỏi thủ tục, thẩm tra kỹ lưỡng, bảo vệ kỹ càng khi mang vào sử dụng.

4. Lực lượng vận hành lớn, phân tán theo như hạ tầng mạng lưới, mạng lưới tới đâu thì bộ máy khai thác con người cần phải với tới đó để khai thác.

5. Mạng lưới viễn thông là phức tạp, tính tự động hóa cao và đỏi hỏi người lao động phải có kinh nghiệm khai thác.

6. Môi trường làm việc độc lập. Với địa hình rộng lớn thì đỏi hỏi người lao động phải có kỹ năng làm việc độc lập. Đây là yêu cầu bắt buộc, nó liên quan tới thời gian xử lý, liên quan tới chi phí sử dụng nguồn lực, và chi phí đi lại. Đây là chi phí chinh, chi phí ĐẮT ĐỎ nhất của vận hành khai thác.

7. Với lực lượng lao động đông đảo, thì việc lao động dịch chuyển ra, dịch chuyển vào là điều dễ hiểu, có người mới, có người cũ, người cũ thì tình thần làm việc, thói quan liêu càng làm cho trình độ và chất lượng công việc không đồng đều ở các khu vực, có tỉnh này làm tốt, tình khác làm kém. Hoặc với cùng 1 tỉnh, có huyện làm tốt, huyện làm kém, hoặc trong 1 huyện thì có nhân viên này làm tốt, nhân viên khác làm kém. Vì vậy việc chất lượng công việc, kiểm soát công việc là cực kỳ bức thiết, bức xúc. Với đặc tính nguồn lực lao động là trực tiếp, thì việc dịch chuyển ra/ vào nhiều như phân tích ở trên thì việc đào tạo là liên tục. Nhưng rõ ràng rằng giữa đào tạo và làm được là hai KHÁI NIỆM không có điểm chung. Bảo rằng đào tạo để làm tốt chỉ là phỏng đoán, công ty rễ xa lầy vào vòng xoáy đào tạo, mất công mất việc mà chất lượng không đi tới đâu.

Từ các đặc tinh trên của một công ty khai thác mạng lưới, cần một giải pháp rốt ráo, triệt để giải quyết tận gốc rẽ các vấn đề như đã kể trên.

Mô hình này gọi là: Flat- Support Online -Ontime.

 1.    Flat -Không còn xa: Hiện nay với hạ tầng viễn thông tốt, Internet ở khắp mọi nơi với tốc độ cao, máy Mobile với cấu hình cao, với khả năng lưu trữ chụp ảnh, video với giá thành hợp lý. Vì vậy việc ghi nhận các hành động, ghi nhận hiện trường là tức thời, trực quan và toàn diện nhất. Mỗi hành động ngoài hiện trường được phản ánh ngay tới mọi cấp. Khoảng cách về Địa lý bị xóa nhòa, thậm chí mô hình phân cấp tổ chức công việc cũng bị xóa nhòa. Các cấp đều nhận thông tin đầy đủ, chính xác cùng một thời điểm. Chưa bao giờ chúng tao có được điều kiện như ngày nay, bất kỳ một tỉnh miền núi xa xôi nào đó thì với người quản lý đều có thông tin về Daily activities hiện trường tưc thì.

2.    Support Online: Thông thường những người làm việc trực tiếp thì khả năng học hỏi, ghi nhớ là hạn chế, trong khi các nghiệp vụ ngày một nhiều, thâm chí cái cũ chưa kịp học thì cái mới đã ra, thậm chí người biên soạn còn không nhớ nội hàm huống chi là người làm trực tiếp với một núi nghiệp vụ, từ tứ phía rội xuống.

Hình: Mô hình cũ

Với mô hình cũ, không có support ta thấy đây chỉ là mô hình REPORT, báo cáo đơn thuần, không mang tính chất Vận hành. Mô hình này chỉ phù hợp với trình độ lao động và tổ chức cao. Nó phụ thuộc vào ý thức của người lao động.

Với mô hình trên thì việc đi kiểm tra, để kỷ luật người lao động giống như bắc cóc bỏ đĩa, ký luật xong thì người lao động cũng sẵn sàng nghỉ việc. Việc truyền thông bài học kinh nghiệm của việc kỷ luật cũng không có giá trị- Đặc biệt là công ty nước ngoài với ngôn ngữ và văn hóa khác biệt. Cùng là người Việt nam, được định nghĩa là trình độ và nhận thức tốt hơn mà kinh nghiệm rút mãi không hết thì nói chi người nước ngoài với trình độ nhận thức khác biệt văn hóa, ngôn ngữ không giống nhau.

Hỗ trợ tức thì, kiểm soát tới từng hành động: Với đặc tính là số lượng người Lao động lớn, trình độ không đồng đều, vì thế chất lượng khai thác cũng khác nhau ứng với trình độ nhân sự khác thác. Nhưng rõ ràng đứng về phía vai trò chủ đầu tư, họ không chấp nhận như vậy. Họ cần chất lượng tốt ở mọi nơi, mọi lúc. Vì thế việc làm đúng, làm đủ, làm tốt ở mọi nơi, mọi thời điểm là yêu cầu cho người làm khai thác.

Mô hình làm việc khai thác như sau sẽ giải quyết triệt để, rốt ráo tất cả các trở ngại như trên. Không còn trở ngại về khoảng cách, địa hình, trình độ lao động, ngôn ngữ, cách làm, đào tạo, kiểm soát, tránh làm đi làm lại một việc. Khi đó năng suất lao động là tối đã, chất lượng được kiểm soát chặt. không còn khoảng cách về ngôn ngữ và trình độ.




Hình 2: Mô hình mới.

Với mô hình mới thì tất cả các nghiệp vụ khai thác tại hiện trường đều là Mũi tên 2 chiều, với ba đặc tính là Flat – Online- Ontime. Đảm bảo nhân viên hiện trường làm đúng, đủ, sửa lại, chỉnh lại những cái chưa làm đúng NGAY tại thời điểm nhân viên hiện trường ở tại trạm, mà không phải thực hiện giao lại WO như cách làm cũ(14% bị chủ đầu tư giao lại, nội bộ Cty tỉ lệ này còn cao hơn 20%-> 20% nguồn lực bị bỏ phí,  phí nhân công+ thời gian+ phí đi lại+ vật tư). Cùng với đó nhân viên hiện trường được hỗ trợ và hướng dẫn cách làm từng nghiệp mới, những thay đổi của nghiệm vụ cũ họ tự tin hơn yên tâm công việc hơn.

Với cách làm mới, bộ máy con người đươc cọ sát liên tục, việc trao đổi liên tục giúp họ có thêm kinh nghiệp, thêm kỹ năng, bỏ đi những hành vi làm không đúng. Cùng với chất lượng mạng VHKT tốt, tường minh, giảm chi phí vận hành khai thác do làm một lần ăn ngay, còn giúp cho trình độ nhân sự ngày một tiến bộ, gắn kết động viên chặt chẽ giữa người làm trực tiếp với cấp trung gian.

3.    Trình độ khai thác mạng lưới chính là trình độ khai thác ảnh.


Hình 3: Trình độ khai thác chính là trình độ khai thác ảnh

Với hình minh họa trên cho ta nhận thức, cùng một vật được nhìn thấy. Nhưng hành động và kết quả thực sự khác biệt. Có người đã hiện thực hóa được kết quả, còn có người vẫn đang ngơ ngác chưa biết phải làm gì?

Chính vì vậy việc nâng cao trình độ khai thác ảnh sẽ làm cho chất lượng mạng tốt hơn. Việc có được nhận thức này giúp chúng ta có được định hướng đúng đắn cho tổ chức và hành động một cách đúng đắn, chất lượng khai thác ngày một tốt đẹp hơn.

+ Chỉ ra ngay cái gì ở ảnh không đúng-> để yêu cầu làm ngay

+ Chỉ ra ngay cái gì ở ảnh không Rõ -> để yêu cầu chụp thêm, hay quay Video

+ Chỉ ra ngay nội dung gì ở ảnh không có, vật gì không có -> yêu cầu cấp thêm

+ Chỉ ra ngay cái gì chưa tốt -> yêu cầu làm thêm

+ Chỉ ra ngay tác phong lao động nào chưa đúng -> yêu cầu chấn chỉnh.

Và thông qua qua trình phân tích ảnh, cho ta thêm những dữ liệu quá giá: Kế hoạch củng cố mạng lưới kịp thời, chính xác với sở cứ chắc chắn, việc giám sát chặt củng cố mạng lưới cũng giúp cho mạng lưới được thụ hưởng thật sự giá trị mà chủ đầu tư bỏ ra để củng cố.

                               Hình 4: Thông tin khai thác được trong ảnh là vô cùng lớn

Công nghệ VAMOS và giải pháp tối ưu dung lượng với chất lượng mạng vô tuyến 2G

 Giới thiệu công nghệ VAMOS và đưa giải pháp để đảm bảo hài hòa giữa dung lượng với chất lượng mạng vô tuyến 2G.

Trong bối cảnh lưu lượng thoại tiếp tục tăng trưởng mạnh ở các thị trường, tần số sử dụng trong 2G bị cắt giảm để nhường tần cho 4G. Để đảm bảo được 2 nhu cầu trên, thì giải pháp phải là chia nhỏ mắt lưới, đặt thêm trạm 2G, kéo theo chi phí về CAPEX, OPEX, trong khi hiệu quả từ kinh doanh thoại ngày một suy giảm, thì với chi phí lớn tăng thêm là điều khó được chấp nhận. Từ đó công nghệ VAMOS ra đời( Voice services over adaptive multi-user Channels on One Slot(VAMOS).

1.Những cải tiến về công nghệ 2G cho VAMOS

Tăng gấp đôi User/ Time Slot

VAMOS là công nghệ cho phép ghép 2 người sử dụng vào cùng 1 Time slot của khung TDMA. Bằng phương pháp này ta đã làm cho khả năng đáp ứng của hệ thống lên gấp đôi, hay dung lượng tăng gấp đôi so với ban đầu.

Với tính năng VAMOS, thì 1 Time Slot trong khung TDMA ta có các khả năng ghép như sau:1 thuê bao Full Rate/ Time slot, 2 thue bao HR/ Time slot, 2 thuê bao Vamos Full rate/ Time slot, 4 thuê bao Vamos HR/ Time slot, 1 Thuê bao HR với 2 thuê bao Vamos HR/Time slot, 1 thuê bao Vamos Ful rate với 2 thuê bao Vamos HR/Time slot.

Việc lựa chọn cấu hình ghép thuê bao/ Time slot sẽ tùy thuộc vào điều kiện chất lượng kênh, chất lượng tín hiệu và tải của Cell. Việc điều khiển quá trình này hoàn toàn được thực hiện bởi nhà vận hành mạng lưới.

Tăng Training Sequency Code(TSC)

Hình: Phương pháp phân biệt các MS cùng 1 Timeslot trong công nghệ VAMOS

Với VAMOS, việc phân biệt 2 User trong cùng 1 Time slot là một yêu cầu mới. Trong công nghệ 2G thông thường, với mỗi cụm thông tin người dùng người ta phải sử dụng 26 bits dữ liệu để sửa tần số, cụm thông tin này được gọi là TSC( Training Sequence Code), mỗi cell 2G chỉ có 1 giá trị TSC duy nhất, giá trị này được quy hoạch trùng với giá trị BCC(Base station Color Code). Khi mạng phục vụ VAMOS thì mỗi cell phải được gán thêm 1 TSC, tức là có 2 TSC/ Cell. 2 TSC này được sử dụng để phân biệt 2 User trong cùng 1 Time slot khi sử dụng VAMOS.

Thay đổi kiểu điều chế cho đường DL( từ BTS xuống MS)

Hình: Xử lý tín hiệu đường lên trong công nghệ VAMOS
Hình: xử lý tín hiệu đường xuống trong công nghệ VAMOS

Trên đường DL(BTS tới MS), thì tín hiệu được điều chế bởi aQPSK thay vi GMSK như trươc đây. Pha tín hiệu của 2 MS vuông góc, công suất của MS1 và MS2 ràng buộc với nhau theo hệ số góc ɑ

Thay đổi vị trí kênh báo hiệu liên kết SACCH trong cấu trúc đa khung 26( cải tiến này chỉ cho những dòng máy hỗ trợ VAMOS II)
Hình: Cấu trúc đa khung trong công nghệ VAMOS

Kênh báo hiệu liên kết chậm SACCH phát vào các khoảng thời gian được chỉ định. Nhằm cung cấp thông tin hệ thống, thông tin chất lượng kênh vô tuyến khi User thực hiện cuộc gọi. Thông tin này là độc lập với từng User, được miêu tả chi tiết như hình trên. Nếu kênh SACCH của User 2 không phát lệch đi 1 khung so với kênh SACCH của User 1 thì chúng sẽ gây nhiễu cho nhau, vì 2 kênh này luôn phát vào thời điểm định trước. Vì thế kênh SACCH của User 2 được phát dịch đi để có thể KHÔNG bị nhiễu, do thời điểm phát kênh SACCH của User 2, thì kênh TCH của User 1 CÓ THỂ không phát, có thể đang ở chế độ DTX với xác suất là 50%.

2. Phương pháp áp dụng VAMOS để cân bằng giữa dung lượng và chất lượng.

Chất lượng và tín hiệu của MS cả đường DL và UL phải ở ngưỡng tốt

Hình: Các ngưỡng điều khiển để đảm bảo chất lượng khi sử dụng VAMOS

VAMOS là việc sử dụng 2 thuê bao trong cùng 1 Time Slot, 2 thuê bao này được gọi là cặp( Paired). Cặp thuê bao này sẽ sử dụng chung 1 Time slot, chúng sẽ ảnh hưởng nhiễu lên nhau. Vì vậy, việc lựa chọn 2 thuê bao phù hợp để bắt cặp là một việc quan trọng để đảm bảo chất lượng thuê bao VAMOS.

Với hình trên, thì các thuê bao thỏa mãn điều kiện trong các khoảng A, B, C, D là phù hợp bắt cặp cho dịch vụ VAMOS.

Điều kiện về tải( Traffic Load) của cell để kích hoạt dịch vụ VAMOS.

Trong điều kiện tải bình thường thì tính năng VAMOS không được kích hoạt, nó chỉ được kích hoạt theo thứ tự ưu tiên từ (1) tới (4) như sau:

(1) Kích hoạt Half rate ->(2) Kich hoạt Handover Full rate- Half rate ->(3) Kích hoạt Full rate VAMOS -> (4) Kích hoạt Half rate VAMOS. Với điều kiện này đảm rằng, chỉ những thời điểm xấu nhất, tính năng VAMOS mới được kích hoạt.

Hai thuê bao ghép cặp phải gần giống nhau về suy hao đường truyền.

Suy hao đường truyền được tính theo công thức: Path loss = Power transmit – rxlevel. Path loss của 2 thuê bao bắt cặp phải tương đương nhau, nhằm tránh cho một trong 2 thuê bao có công suất phát mạnh, gây nhiễu cho User còn lại.

Tổng công suất đường DL của thuê bao bắt cặp, không được vượt quá công suất phát của Cell và không khác biệt nhau quá lớn.

SCPIR( Subchannel Power Imbalance Ratio), là chỉ số để đánh giá sự khác biệt công suất đường DL giữa 2 User được bắt cặp. Mục tiêu của việc giữ giá trị này ở ngưỡng tối thiểu giúp cho công suất của 1 trong 2 User bắt cặp trở lên quá lớn, làm nguồn nhiễu gây mất dịch vụ của User còn lại.

          Công suất của Cell phải chia cho 2 User trong cùng 1 cặp, tổng công suất của 2 user này vì thế không được vượt quá công suất cho phát của Cell. Trong trường hợp cần điều khiển công suất phát DL của 1 User trong cặp thì phải thực hiện điều chỉnh để thỏa mãn cả 2 điều kiện nêu trên.

 Kết luận.

Hãy xem đặc tính của dịch vụ thoại, 1 người nói thì người còn lại sẽ nghe vì vậy khoảng trống DTX là 50% của thời gian đàm thoại. Thật là ý tưởng tốt nếu chúng ta tận dụng khoảng DTX này cho User khác sử dụng.

Việc sử dụng tính năng VAMOS, với những cải tiến tốt, cùng với việc kiểm soát tốt những điều kiện áp dụng, giúp ta tăng được dung lượng hệ thống mà không bị suy giảm chất lượng cuộc gọi.

Tham khảo thông tin thực tế của 1 Cell 2G phục vụ lễ hội(Mynamar)

Hình: Thống kê Traffic cell 2G khi sử dụng tính năng VAMOS

Tỉ lệ Traffic TCH VAMOS chiếm rất lớn, gần 50% tổng số traffic của cell tại giờ PEAK. Nếu không có VAMOS ta phải đầu tư gấp đôi số lượng TRX để mang về một lượng traffic như vậy. Từ dữ liệu trên thấy rằng khả năng hỗ trợ VAMOS của máy di động là lớn, chỉ cần hệ thống có VAMOS thì sẽ sãn sàng sử dụng.

Hình: Chất lượng KPI của cell khi sử dụng tính năng VAMOS.
Các chỉ số chất lượng, KPI tốt hơn nhiều CTKT yêu cầu. Cuộc gọi VAMOS có chất lượng tương đương với cuộc gọi thông thường.

Để ủng hộ tác giả bài viết, xin ủng hộ mua sản phẩm tại: Gốm lạc việt Bát tràng